Chùa Kim Hoàng (Đại Bi Tự) Kim Hoàng

Chùa Kim Hoàng tên chữ Đại Bi tự, có ít nhất từ đầu thế kỷ 18. Trải qua hơn ba thế kỷ chùa Đại Bi đã được trùng tu và tôn tạo nhiều lần, dáng vẻ ngày nay mang đậm phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.Tam quan ngoại xây kiểu 2 tầng, 8 mái đắp ngói ống giả với 3 cửa mở ra con đường dẫn đến cổng phía tây của làng Kim Hoàng cách đó chừng 50m. Sau tam quan ngoại là vườn trước, hai bên có hai ao nước hình chữ nhật.

Du khách theo con đường gạch ở giữa vườn trước để đến tam quan nội nằm phía sau pho tượng Quan Âm Nam Hải đứng trong một lầu lục giác mới xây.Tam quan nội là một phương đình kiểu 2 tầng, 8 mái, 16 cột, 1 gác chuông, hai bên có cửa phụ đưa khách vào chùa trong.Tiền đường 7 gian, đầu hồi bít đốc, mặt nhìn về hướng nam qua sân và phương đình; lưng nối với thiêu hương và thượng điện theo hình chữ "Công". Các nếp nhà phụ nằm ở sân sau.

Trong chùa Kim Hoàng hiện vẫn còn hai tấm bia hậu ở hai gian bên của tiền đường.

Bia thứ nhất có hai mặt chữ khắc chân phương, được dựng ngày 26 tháng Một năm Giáp Thân, niên hiệu Chính Hòa thứ 25 (1704). Nội dung văn bia cho biết: bà Lê Thị Thu, hiệu Diệu Trí, vốn con nhà giàu quyền quý, quê ở huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa, cùng chồng là Huyện thừa huyện Nghi Dương, họ Nguyễn, tự Xuân Thung, hiệu Trung Tín, tước Cơ Thọ nam, đã hiến cho chùa 18 quan tiền cổ và 1 mẫu 1 sào rưỡi ruộng, được làng tôn làm Hậu Phật.

Bia thứ hai cũng có hai mặt chữ khắc chân phương. Một mặt ghi ngày mồng 4 tháng Tư niên hiệu Bảo Thái thứ sáu (1725) ghi việc bà Nguyễn Thị Trưng cúng cho làng một mẫu ruộng để phục vụ việc thờ cúng trong chùa và tu bổ giếng trước cửa chùa. Mặt sau soạn bởi Tiến sĩ Trần Hiền, người làng, được lập ngày tốt, tháng Chín năm đầu niên hiệu Vĩnh Hựu (Ất Mão 1735), ghi việc làng nhớ công ơn của ông Nguyễn Xuân Thung, bà Lê Thị Thu và bà Nguyễn Thị Trưng đã góp công tu bổ chùa.

Ngoài ra còn có quả chuông "Đại Bi tự chung" treo trên gác tam quan chùa Kim Hoàng. Chuông được đúc vào ngày 13 tháng Năm (trọng Hạ), năm Kỷ Mùi niên hiệu Cảnh Thịnh thứ bảy (1799) triều Tây Sơn. Bài văn bia do Tri huyện Mỹ Lương là Nguyễn Thông Tế soạn, có bài minh 28 câu ca ngợi cảnh đẹp của chùa.